[TIMKIEMNHANH]

Sự khác biệt của tân ngữ và bổ ngữ

Thứ hai - 07/08/2017 15:02
Trong câu chủ vị, trung tâm của vị ngữ là động từ, thành phần phía sau có thể là tân ngữ cũng có thể là bổ ngữ; trung tâm của vị ngữ là tính từ (trừ cách dùng sử động) thành phần phía sau chỉ có thể là bổ ngữ. danh từ biểu thị nơi chốn không chỉ có thể làm tân ngữ mà còn có thể làm bổ ngữ. Đoản ngữ số lượng có khi làm tân ngữ, có khi lại làm bổ ngữ, những trường hợp phức tạp, đan xen nhau này khiến chúng ta khó mà xác định ngay một cách chính xác tân ngữ và bổ ngữ. có thể tiến hành phân biệt ở các mặt dưới đây:
Sự khác biệt của tân ngữ và bổ ngữ
1.  从意义上区分
Tân ngữ là đối tượng đề cập đến của động từ, trả lời câu hỏi “ai?”, “cái gì?”. Ví dụ:
(1) 看电视。                     看什么?                     “电视”
(2) 美国攻打伊拉克。   美国攻打“谁”?  “伊拉克”
Bổ ngữ là thành phần nói rõ, bổ sung ở phía sau của tính từ, động từ, trả lời các câu hỏi “như thế nào, “bao nhiêu”, “bao lâu”. Ví dụ:
(1) 睡够了。睡得怎么样? “够了”.
(2) 跑了三趟。 跑了多少? “三趟”.
(3) 休息一个星期。 休息多久? “一个星期”
2. 从词性上区别
thông thường các danh từ, đại từ, từ chỉ số lượng, đoản ngữ mang tính danh từ đứng phía sau của thuật ngữ là tân ngữ. (thuật ngữ: động từ làm trung tâm vị ngữ). Ví dụ:
(1) 我有一个问题,可以问你妈?
(2)我买了五本。
(3) 你看第十课的生词。
Động từ, tính từ, các đoản ngữ mang tính động từ và tính từ không chỉ có thể làm bổ ngữ mà cũng có thể làm tân ngữ. Có thể trả lời câu hỏi “cái gì” là tân ngữ, còn trả lời “như thế nào” là bổ ngữ. Ví dụ:
开展试验。开展什么? 试验(作宾语)
开展顺利。 开展得怎么样? 顺利(作补语)
Các đoản ngữ chỉ số lượng xuất hiện ở phía sau cấc thuật ngữ do tính chất của lượng từ quyết định. Thông thường do vật lượng từ tạo thành đoản ngữ số lượng làm tân ngữ, do động lượng từ tạo thành làm bổ ngữ. Ví dụ:
我们去看一次吧! (作补语)
3. 从有无结构助词“得” 来区分
Trợ từ kết cấu “得” là tiêu chí của bổ ngữ, phía sau vị ngữ xuất hiện “得” thường đều là bổ ngữ. Ví dụ:
你回来那天,杜鹃花激动得流泪了.....
Nhưng trong các từ hợp thành như “觉得,获得,取得晓得”. “得” chỉ là một ngữ tố; nếu các từ này làm thuật ngữ, sự xuất hiện của những từ ngữ phía sau chúng không phải là bổ ngữ mà là tân ngữ. Ví dụ:
(1) 那个运动圆获得了冠军。
(2)我一点也不觉得疲倦。(疲倦: píjuàn: mệt mỏi)
4. 看能不能换成“把” 字句
Những đoản ngữ số lượng  do vật lượng từ tạo thành, ở phía sau động từ vị ngữ, có khi làm tân ngữ, có khi làm bổ ngữ. Đoản ngữ số lượng có thể thay đổi thành câu chữ “把” là tân ngữ, không thể đổi là bổ ngữ. Ví dụ:
(1) 他浪费了两个钟头。能说成: “他把两个钟头浪费了”
(2)他干了两个钟头。不能说“他把两个钟头干了”
Ghi chú: Cách dùng sử động là chỉ cách dùng linh hoạt của tính từ trong tiếng Hán cổ đại. Tính từ được mượn dùng làm động từ, khiến cho tân ngữ phía sau có được tính chất hoặc trạng thái của tính từ đứng trước.
Ví dụ: 能富贵将军者呈上也。
-> 能使将军您富贵的人是呈上。
Người có thể làm cho tướng quân ngài được phú quý là hoàng  thường.
 

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Facebook
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập58
  • Hôm nay6,110
  • Tháng hiện tại68,983
  • Tổng lượt truy cập5,609,411
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây